Nước mắm theo cách hiểu thông thường là chất nước
rỉ từ cá, tôm và một số động vật nước khác được ướp muối lâu
ngày. Nó được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực của các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam và Thái Lan,
để làm nước chấm hoặc gia vị chế biến các món ăn. Tại miền nam Trung Quốc,
nước mắm cũng được sử dụng, nhưng chỉ dùng để làm dầu hay gia vị trong các món súp và thịt hầm.
Trên phương diện khoa học, nước mắm là hỗn hợp muối với các axit
amin được chuyển biến từ protein trong thịt cá qua một quá trình thuỷ phân có
tác nhân là các hệ enzyme có sẵn trong ruột cá cùng với một loại vi khuẩn kỵ
khí chịu mặn.
Nước mắm ở ngoài Việt Nam
Có thể nói Việt Nam
từ thời xa xưa đã là xứ sở của các loại mắm. Từ mắm nêm, mắm phệt, mắm ruốc,
mắm tôm đến các loại mắm lóc, mắm sặt, khô mắm, khô mặn v.v... cho đến loại mắm
đặc biệt là mắm nước thường được gọi là nước mắm. Nước mắm có thể làm từ cá
sống, cá khô; hoặc từ cả các loại sò hến, tôm cua hoặc trái cây như quả điều
khi làm nước mắm chay. Một số loại nước mắm được làm từ cá nguyên con, một số
khác thì chỉ được từ tiết hay nội tạng cá. Một số loại nước mắm chỉ có cá và
muối, một số khác có thể có thêm dược thảo và gia vị. Nước mắm lên men ngắn
ngày có mùi tanh đặc trưng của cá. Quá trình lên men dài ngày sẽ giảm được mùi
tanh và tạo ra hương vị mùi quả hạch và béo hơn.
Nước mắm châu Á
Nước mắm châu Á thường được chế biến từ cá cơm, muối,
và nước,
và cần được tiêu thụ điều độ vì nó có vị rất mạnh. Nước mắm Thái Lan rất giống
mắm Việt Nam
và được gọi là nam pla (น้ำปลา). Tại
Trung Quốc, nó được gọi là ngư
lộ (魚露, yúlù), tại Triều Tiên yeotgal (엿갈), tạiIndonesia kecap
ikan và tại Philippines patis. Tại Nhật Bản,
ba loại mắm được sử dụng; shottsuru ở tỉnh Akita, ishiru ở tỉnh Ishikawa,
vàikanago-jōyu ở tỉnh Kagawa.
Bã cá giống mắm ở Indonesia
được gọi là trasi, tại Campuchia prahok (Bò hóc) và thường dùng cá đã để hơi
ươn trước khi ướp muối. Người Mã Lai cũng có cục gạnh cá gọi là belacan.
Mắm Lào được gọi là padek, được chế biến từ cá nước
ngọt.
Phương Tây
Có một loại nước mắm cũng đã từng phổ biến ở thời La Mã cổ đại,
tiếng Latin gọi là garumhoặc liquamen, và cũng tồn tại trong
nhiều loại nước chấm như oxygarum (pha với giấm),meligarum (pha với mật ong), v.v. Nước mắm cũng
là một trong những đặc sản ở vùng Hispania Baetica.
Trong tiếng Anh, nó được gọi là fish
sauce. Nước chấm Worcestershire ở Anh là một sản phẩm tương tự, loại nước
chấm này được mang từ Ấn Độ sang Anh Quốc. Ngày nay, người ta dùng cá trống để làm garum, nhưng không được lên
men.
Nước mắm tại Việt Nam
Tại Việt Nam,
các vùng miền duyên hải đều làm nước mắm. Nước mắm thường chủ yếu làm từ các
loại cá biển (cá cơm, cá thu, cá nục v.v.) và rút chiết ra dưới dạng nước. Tùy
theo độ đạm trong nước mắm mà người ta phân cấp độ (nước mắm cốt, nước mắm loại
1, nước mắm loại 2). Một số thương hiệu xuất xứ nổi tiếng của nước mắm có thể
kể đến như Nước mắm Phan Thiết, nước mắm Liên Thành, Nước mắm Phú Quốc,Nước mắm Nha Trang, Nước mắm Cát Hải.
Chén nước mắm dùng chung giữa mâm cơm được coi là nét đặc trưng
cho văn hoá chia sẻ trong ẩm thực Việt Nam.
Cách chế biến
Cách chế biến nước mắm truyền thống của người Việt là ủ
chượp theo phương pháp gài nén. Cá được trộn đều với muối ăn theo tỷ lệ xấp
xỉ 3:1 (gọi là chượp) rồi cho vào thùng gỗ lớn, dung tích thường dùng từ 2.5 -
8 m³, rồi rải muối gài nẹp
đè đá bên trên để nén. Sau 2-4 ngày thì mở nút lù dưới đáy thùng để hứng
"nước bổi". Nội dung trong thùng chượp sau khi ra rút nước bổi sẽ xẹp
xuống, nút lù được đóng lại và ủ từ 7-12 tháng. Khi chượp "chín",
nước mắm hình thành trong suốt, có màu từ vàng rơm đến cánh gián, mất mùi tanh và
thay vào đó có mùi thơm đặc trưng, được rút đợt đầu gọi là nước cốt. Phần cốt
còn lại được cho nước bổi vào, thêm muối lên men tiếp rồi rút tiếp nước hai.
Ở một số địa phương miền Bắc, như Cát Hải - Hải Phòng,
cách chế biến phổ biến là đánh khuấy, theo đó cá trước khi trộn chượp có thể
đập dập, sau thời gian khoảng 3 tháng thì đánh khuấy chượp để tăng tốc độ chín.
Phương pháp này rút ngắn thời gian ủ chượp xuống 6-7 tháng, nhưng chỉ cho nước
mắm có độ đạm thấp hơn phương pháp truyền thống.
Ðánh giá chất lượng
Tiêu chí truyền thống để đánh giá chất lượng nước mắm nguyên chất
là độ đạm - đạm tạo nên hậu vị ngòn ngọt đằng sau vị mặn của muối. Nếu muối có
nhiều tạp thì nước mắm thường có vị chát, vị khé. Nên nước mắm ngon trước hết
phải có vị mặn không chát kèm theo hậu vị đạm cao, sau đó phải có mùi đặc trưng
mà không tanh, không thối.
Theo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét